-
Hoạt động khác
-
Hàm ý về chính sách và quy định trong việc kết nối nông dân chăn nuôi với các thị trường ở vùng sâu vùng xa
Ngày đăng: 29/12/2017Lượt xem: 1352Các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam có đặc điểm độ cao lớn, cơ sở hạ tầng kém phát triển và mật độ dân cư thưa thớt với các thành phần dân tộc đa dạng. Những đặc điểm văn hóa-xã hội ở đây ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hệ thống sản xuất và phong cách sống của người dân. Một phần do sự cô lập về địa lý và kinh tế, vùng Tây Bắc có tốc độ phát triển chậm cũng như tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong cả nước.Dương Nam Hà1,2, Phạm Văn Hùng1, Trần Thế Cường1, Ninh Xuân Trung1, Trần Văn Long1, Laurie Bonney2'3, Peter Lane2,3, Guillaume Duteurtre4, Stephen Ives5
Cơ quan
1Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam
2Khoa Đất và Thực phẩm, Đại học Tasmania, Hobart, Australia
3Viện Nông nghiệp Tasmania (TIA), Đại học Tasmania, Hobart, Australia
4Trung tâm Nghiên cứu Nông nghiệp Pháp cho Phát triển Quốc tế(CIRAD), Pháp, UMR SELMET, S/C DRASEC, Hà Nội, Việt Nam
5Trường Cao đẳng thuộc Đại học Tasmania, Launceston, Tasmania 7250, Australia
Tác giả đại diện
Stephen.Ives@utas.edu.au
Từ khóa
Ảnh hưởng văn hóa-xã hội, Can thiệp cho phát triển, Chăn nuôi gia súc, Tác nhân quy mô nhỏ, Việt Nam
Giới thiệu
Các tỉnh Tây Bắc của Việt Nam có đặc điểm độ cao lớn, cơ sở hạ tầng kém phát triển và mật độ dân cư thưa thớt với các thành phần dân tộc đa dạng. Những đặc điểm văn hóa - xã hội ở đây ảnh hưởng mạnh mẽ đến các hệ thống sản xuất và phong cách sống của người dân. Một phần do sự cô lập về địa lý và kinh tế, vùng Tây Bắc có tốc độ phát triển chậm cũng như tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong cả nước. Điều này thực sự đòi hỏi các can thiệp phù hợp chú trọng đến sự thay đổi hành vi của các tác nhân quy mô nhỏ thông qua phát triển chuỗi giá trị tại địa phương (Baulch, Chuyen, Haughton, và Haughton, 2007; Donovan, Franzel, Cunha, Gyau và Mithofer, 2015; Wells-Dang, 2012). Vì vậy, cần nhiều nghiên cứu hơn về sự biến động của sinh kế nông thôn, động cơ để làm nông nghiệp và mối quan hệ giữa các yếu tố văn hóa-xã hội và các quyết định kinh tế (Firth, 1951), đặc biệt là bản chất của những động lực nhằm thúc đẩy các quyết định về sản xuất và thị trường của người nông dân (Emery và Flora, 2006; Harvey và Reed, 1996). Tuy nhiên, ở Việt Nam, có rất ít tài liệu về cách thực hiện cũng như các gợi ý về việc lồng ghép các yếu tố văn hóa-xã hội vào các can thiệp phát triển chuỗi giá trị, đặc biệt liên quan đến vùng cao Tây Bắc (xem Friederichsen, 2004; Tugault-Lafleur và Turner, 2011; Turner, 2012; Wells-Dang, 2012). Thông qua nghiên cứu chuỗi giá trị bò thịt địa phương vùng Tây Bắc, báo cáo này là một nỗ lực khỏa lấp những khoảng trống kiến thức nhằm hỗ trợ việc thiết kế chính sách trong tương lai để tăng cường tính bao trùm thị trường cho các hộ nông dân quy mô nhỏ.
Cách tiếp cận nghiên cứu
Tiếp cận chuỗi giá trị (Kaplinsky và Morris, 2001) đã được áp dụng tại hai địa điểm nghiên cứu là tỉnh Sơn La và Điện Biên ở khu vực Tây Bắc Việt Nam. Bên cạnh khảo sát ban đầu với 186 nông dân trong 4 xã được chọn, một chuỗi các thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu đã được triển khai với nhiều tác nhân khác nhau trong chuỗi (như các nhà thu mua, các lò giết mổ, các nhà bán lẻ, nhà hàng và người tiêu dùng) trong khu vực. Phân tích lợi ích-chi phí cũng được thực hiện với một số' nông dân vào giai đoạn cuối của dự án nhằm đánh giá các can thiệp đã được tiến hành. Nghiên cứu cũng xem xét hành vi của các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ liên quan đến nhận thức về giá trị do có thể có liên quan đến văn hóa của họ (Harvey và Reed, 1996; Gasson, 1973). Những cách thực hành khác nhau của nông dân được phân tích qua các cách tiếp cận trên với giả định rằng các yếu tố văn hóa xã hội có tác động đáng kể tới các hộ chăn nuôi địa phương hơn là các động lực kinh tế đơn thuần. Hơn nữa, chúng tôi cũng sử dụng tiếp cận thể chế trong bối cảnh chuỗi giá trị (Kaplinsky và Morris, 2001) nhằm tìm hiểu nền tảng chính sách với các thể chế được hiểu là "qui định của cuộc chơi" và các tổ chức được hiểu là "những người chơi" (Aoki, 2007; North, 1990).
Kết quả
Một chuỗi giá trị địa phương ở vùng cao Tây Bắc thường liên quan tới nhiều hộ chăn nuôi nhỏ từ khâu sản xuất tới phân phối và tiêu thụ do tính chất địa hình phức tạp. Trong bối cảnh này, sự lấn át của một vài tác nhân trung gian trong chuỗi giá trị địa phương có thể dẫn đến những bất lợi về nông nghiệp và kinh tế-xã hội của các hộ chăn nuôi nhỏ do việc bất bình bẳng trong tiếp cận thị trường và thông tin, do đó, bất đối xứng về quyền lực. Mặt khác, các hộ chăn nuôi nhỏ lại là các chủ thể chăn nuôi chính trong khu vực. Tuy nhiên, sự tham gia không tích cực của họ trong chuỗi giá trị thể hiện ở việc bán gia súc không thường xuyên có thể hàm ý cả những động lực kinh tế hoặc phi kinh tế; và mặc dù những lý do này khác nhau giữa các nhóm dân tộc ở các địa bàn khác nhau, các động lực kinh tế vẫn đóng một vai trò quan trọng. Hiểu biết nhiều hơn về chuỗi giá trị địa phương với sự chú ý tới các yếu tố' văn hóa-xã hội giúp dự án của chúng tôi thiết kế những hoạt động can thiệp về kỹ thuật và thị trường thích hợp nhằm cải thiện kết quả của chuỗi.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy các hoạt động chăn nuôi bò thịt của nông dân tại các tỉnh đã được hỗ trợ bởi các nhà chức trách địa phương thông qua hai loại chính sách khác nhau được đưa ra ở cấp quốc gia: (i) chính sách phát triển chăn nuôi, và (ii) chính sách xóa đói giảm nghèo. Các chính sách cơ sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng nhằm hỗ trợ kinh doanh gia súc và thị trường thịt gia súc. Sở Nông nghiệp Phát triển Nông thôn (DARD) với các đơn vị trực thuộc và các dịch vụ hoạt động phân cấp tương tác với Ủy ban Nhân dân tỉnh và các trung tâm cấp tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nông nghiệp và các chính sách phát triển chăn nuôi. Nghiên cứu cũng phát hiện hai nhóm thể chế có lẽ khá hữu ích cho việc phát triển chuỗi giá trị tại địa phương. Thứ nhất là các thể chế quản lý việc tiếp cận đồng cỏ tự nhiên dường như hạn chế việc thương mại hóa bò thịt. Thứ hai chăn nuôi theo hợp đồng có thể khuyến khích việc chăn nuôi và tiếp thị bò thịt, theo hình thức các doanh nghiệp tư nhân ký gửi gia súc cho nông dân.
Thảo luận và kết luận
Để phát triển chăn nuôi bò thịt ở vùng sâu vùng xa, các động lực kinh tế đóng vai trò quan trọng trong định hướng nhận thức của người nông dân về chăn nuôi gia súc. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế từ các cách thực hành cần phải được trình diễn thử nghiệm thông qua những người nông dân nòng cốt của cộng đồng như trưởng bản. Những hộ khác sẽ dễ dàng chấp nhận hơn và tin tưởng vào động cơ thúc đẩy sự can thiệp và thay đổi hành vi bằng cách tham gia vào các nghiên cứu và quá trình phát triển. Hơn nữa, việc tập hợp người dân vào các nhóm sở thích cũng cần kết hợp biện pháp tiếp cận văn hóa-xã hội. Sự tham gia của các trưởng bản hoặc những người nông dân thực hành tốt sẽ giúp hình thành một nhóm nông dân lớn hơn cũng như tổ chức có hiệu quả hơn cho việc áp dụng và phổ biến kiến thức trong cộng đồng. Liên quan đến liên kết dọc giữa nông dân, các lò mổ và các nhà bán lẻ thông qua việc tạo lập mạng lưới và thương hiệu, rõ ràng là sự hợp tác giữa các nhà nghiên cứu và những người tham gia vào chuỗi là rất quan trọng trong phát triển chuỗi giá trị.
Hiện vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển chăn nuôi và thị trường bò thịt tại khu vực Tây Bắc Việt Nam. Đa dạng hóa chăn nuôi bò thịt trong hệ thống nông hộ quy mô nhỏ cũng như tiến hành các can thiệp thích hợp chú trọng đến tiếp cận văn hóa-xã hội nên được xem là những nhiệm vụ chính của các nhà hoạch định chính sách nhằm cải thiện hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi bò thịt cũng như nâng cấp toàn bộ chuỗi giá trị bò thịt dựa trên phát triển thị trường địa phương.
Tài liệu tham khảo1. Aoki, M. (2007). Các thể chế nội sinh và sự thay đổi thể chế. Tạp chí kinh tế tổ chức, 3,1-31.2. Baulch, B., Chuyen, T. T. K., Haughton, D., & Haughton, J. (2007). Phát triển dân tộc thiểu số tại Việt nam. Tạp chí nghiên cứu phát triển , 43(7), 11511176. doi:10.1080/026730307015262783. Donovan, J., Franzel, S., Cunha, M., Gyau, A., & Mithöfer, D. (2015). Hướng dẫn xây dựng chuỗi giá trị: rà soát so sánh. Tạp chí kinh doanh nông nghiệp ở những nền kinh tế mới nổi và đang phát triển, 5(1), 2-23. doi: https://doi.org/10.1108/JADEE-07-2013-00254. Emery, M. & Flora, C. (2006). Phát triển xoắn ốc: lập bản đồ chuyển đổi cộng đồng với khuôn khổ vốn cộng đồng. Phát triển cộng đồng, 37(1), 19-35.5. Firth, R. (1951). Các yếu tố tổ chức xã hội. London: Watts.6. Friederichsen, J. R. (2004). Sự tham gia của các hộ nông dân H'mông vào các nghiên cứu nông nghiệp tại vùng cao phía bắc Việt Nam. Báo cáo được trình bày tại Trans-KARST 2004, Hà Nội, Việt Nam.7. Gasson, R. (1973). Mục tiêu và giá trị của người nông dân. Tạp chí kinh tế nông nghiệp 24(3), 521-542. doi:10.1111/j.1477-9552.1973.tb00952.x8. Harvey, D.L. và Reed, M.H. (1996). Văn hóa nghèo đói: Phân tích tư tưởng. Những quan điểm xã hội học, 39(4), 465-495.9. Kaplinsky, R., & Morris, M. (2001). Sổ tay nghiên cứu chuỗi giá trị. IDRC Ottawa.10. North, D. (1990). Thể’ chế, thay đổi thể’ chế và hoạt động kinh tế: Nhà xuất bản đại học Cambridge.11. Tugault-Lafleur, C., & Turner, S. (2011). Về Gạo và Gia vị: Sinh kế và sự đa dạng của người H'mông tại Miền núi phía Bắc Việt Nam. Trong J. Michaud & T. Forsyth (Eds.), Di chuyển miền núi: tính dân tộc và sinh kế tại vùng cao Trung Quốc, Việt Nam và Lào (tr. 100-122). Vancouver: Ấn phẩm Đại học British Columbia.12. Turner, S. (2012). "Mãi mãi H'Mông": Sinh kế dân tộc thiểu số H'Mông và chuyển đổi đất nông nghiệp tại vùng cao phía Bắc Việt Nam. Nhà địa lý chuyên nghiệp 64(4), 540-553. doi:10.1080/00330124.2011.61143813. Wells-Dang A. (2012). Phát triển dân tộc thiểu số tại Việt Nam: Điều gì dẫn đến thành công? Tài liệu bối cảnh giới thiệu Đánh giá nghèo đói cấp chương trình 2012, tháng 5-2012, 45 p. http://www.ngocentre.org.vn/webfm_send/4084Cây dữ liệu:Dữ liệu liên quan:- Trồng sắn và sinh kế bền vững của các hộ sản xuất nhỏ ở tỉnh Sơn La: Sơ bộ kết quả khảo sát hộ gia đình
- Ứng dụng nghiên cứu tổng hợp cho phát triển nông lâm kết hợp bền vững tại khu vực Tây Bắc Việt Nam
- Nguồn thức ăn thô xanh và lựa chọn thức ăn thô xanh cho các hệ thống chăn nuôi gia súc bền vững
- Cải thiện an toàn thực phẩm trong chuỗi giá trị thịt lợn - Bài học kinh nghiệm từ kết quả đánh giá và định hướng tương lai
- Chuỗi rau an toàn Mộc Châu và việc truy xuât nguồn gốc
- Cơ hội thương mại liên tỉnh cho các loại rau bản địa và rau thông thường của Lào Cai
- Sự tham gia của các hộ nông dân sản xuất nhỏ trong chuỗi giá trị rau tại Lào Cai
- Chuyển đổi cây trồng và khác biệt xã hội với sự bùng nổ sản xuât sắn: Nghiên cứu trường hợp ở Sơn La và Đắk Lắk tại Việt Nam
- Canh tác cây ăn quả và rau - con đường mang lại lợi nhuận cao cho nông hộ nhỏ
- Lồng ghép chăn nuôi gia súc với các hệ thống canh tác tại vùng cao Tây Bắc: Thách thức và cơ hội
- Liên kết website
- Thăm dò ý kiến
-
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?Phong phú, đa dạngTạm đượcCần bổ sung thêmBình chọnKết quả
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?
Tổng số:209 phiếu
|
|||
---|---|---|---|
Phong phú, đa dạng | 60,3 60,3% |
126 phiếu | |
Tạm được | 3,3 3,3% |
7 phiếu | |
Cần bổ sung thêm | 36,4 36,4% |
76 phiếu |
Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Địa chỉ: Số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 0243-8234651; FAX: 0243-7344967; Email: tt@mard.gov.vn
© Hệ thống cơ sở dữ liệu csa - Version 1.0
Được phát triển bởi Cty TNHH Tư vấn đầu tư và phát triển Tâm Việt