-
Hoạt động khác
-
Quản lý bệnh sưng rễ cải bắp tại Sa Pa
Ngày đăng: 01/02/2018Lượt xem: 2798ải bắp là một trong những loại rau trồng quan trọng ở tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Tại đây, cải bắp thường phải chống trọi với bệnh sưng rễ do nấm Plasmodiophora brassicae, một loại bệnh hại nghiêm trọng nhất của cây rau họ cải trên thế giới (Donald và cs., 2006)Mỹ Chu1,Len Tesoriero2, Hiền Phan1, HàĐặng1, Linh Hoàng1
Cơ quan
1Viện Dược liệu, Hà Nội, Việt Nam
2Cục Các ngành cơ bản bang NSW, Australia
Tác giả đại diện
phanthuyhien@yahoo.com
Từ khóa
Cải bắp, bệnh sưng rễ, Plasmodiophora brassicae, vôi, hoạt chất fluazinam
Đặt vấn đề
Cải bắp là một trong những loại rau trồng quan trọng ở tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Tại đây, cải bắp thường phải chống trọi với bệnh sưng rễ do nấm Plasmodiophora brassicae, một loại bệnh hại nghiêm trọng nhất của cây rau họ cải trên thế giới (Donald và cs., 2006). Triệu chứng điển hình của bệnh là những nốt sưng to như khối u lớn trên rễ, ngăn ngừa sự hấp thunước và chất dinh dưỡng của cây.
Cây bị bệnh còi cọc, không sinh trưởng được, héo và chết khi thời tiết nóng lên. Nguồn bệnh có thể tồn tại trong đất dưới dạng bào tử tĩnh trong hơn 15 năm, vì vậy việc luân canh cây trồng không phải là một phương án quản lý hữu hiệu (Wallenhammar, 1996). Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu tìm ra được cách phòng trừ bệnh sưng rễ trước khi khuyến cáo cho người dân tự thử nghiệm và đánh giá hiệu quả cùng với nhóm hệ thống canh tác.
Phương pháp nghiên cứu
Các thí nghiệm được tiến hành trên một trang trại rau bị nhiễm bệnh sưng rễ trong hai vụ trồng liên tiếp ở Sa Pa vào năm 2015. Thí nghiệm được bố trí theo ô vuông Latin, 5 lần nhắc lại, mỗi ô thí nghiệm gồm 12 cây cải bắp theo các công thức như sau:
Công thức 1: Đối chứng, không xử lý;
Công thức 2: Xử lý đất bằng vôi bột (mục tiêu tăng độ pH lên 7);
Công thức 3: Xử lý bằng thuốc có hoạt chất fluazinam, tưới cho cây con sau khi trồng;
Công thức 4: Sử dụng hành lácắt nhỏ với lượng 5 kg/ha (thí nghiệm 1) hoặc xử lý đất bằng flusulfamide, trộn vào đấttrước khi trồng (thí nghiệm 2); Công thức 5: Xử lý đất bằng vôi bột (mục tiêu tăngpH lên 7) +hoạt chất fluazinam.
Cấp bệnh được đánh giá theomức độ sưng của rễ (theo thang từ 0 đến 5, từ "không bị bệnh"đến "cây chết"). Chỉ số bệnh (DI) được tính toán cho mỗi công thức theo phương pháp của Donald và cộng sự (2006). Khối lượng tươi của từng bắp được ghi lại khi thu hoạch để đánh giá khối lượng bắp cải thương phẩm của từng công thức thí nghiệm. Hiệu quả kinh tế của từng công thứ thí nghiệm cũng được đánh giá dựa trên chi phí đầu vào và thu nhập trên mỗi sào (360m2).
Kết quả
Thí nghiệm 1: Công thức phòng trừ bệnh hiệu quả nhất là sử dụng hoạt chất fluazinam và vôi kết hợp với fluazinam, làm giảm chỉ số bệnh từ 15% đến 20% so với công thức đối chứng. Không có sự khác biệt đáng kể về khối lượng bắp cải trung bình ở công thức xử lý vôi và công thức đối chứng. Tuy nhiên, khối lượng bắp cải cao hơn rõ rệt ở công thức xử lý fluazinam và fluazinam + vôi (Hình 1a, b).Hình 1a. Chỉ số mệnh sưng rễ cải bắp ở các công thức phòng trừ bệnh trong thí nghiệm 1 Hình 1b: Khối lượng bắp cải trung bình ở các công thức phòng trừ bệnh trong thí nghiệm 1 Hình2a.Chỉ số bệnh sưng rễ cải bắp ở các công thức phòng trừ bệnh trong thí nghiệm 2 Hình2b.Khối lượng bắp cải trung bình ở các công thức phòng trừ bệnh trong thí nghiệm 2 Đánh giá hiệu quả kinh tế ở các công thức phòng trừ trong thí nghiệm 2 cho thấy người trồng cải bắp đạt được thu nhập cao nhất từ việc xử lý đất bằng hoạt chất fluazinam + vôi, tiếp theo là fluazinam rồi đến flusul- famide lần lượt với khoảng 18,3 triệu đồng, 11,6 triệu đồng và 10,8 triệu đồng cho 1 sào (360m2) sau khi trừ chi phí đầu vào cho vôi bột và thuốc trừ nấm.
Thảo luận và Kết luận
Sử dụng fluazinam xử lý đất khi trồng cây đã kiểm soát thành công bệnh sưng rễcải bắp bằng cách giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh và cải thiện khối lượng bắp cải thương phẩm. Thuốc trừ nấm kết hợp với vôi bột đã được áp dụng phòng trừ bệnh sưng rễ cải bắp trong các thử nghiệm của người dân ở quy mô lớn hơn tại Sa Pa,giúphọ có được vụ thu hoạch bắp cải thành công vào năm 2016. Sử dụng vôi bột với mục tiêu tăng độ pH lên 7 đã góp phần giảm bớt bệnh hại vì mầm bệnh hoạt động mạnh hơn trong môi trường đất chua.
Việc sử dụng hành lá không có hiệu quả trong nghiên cứu này nhưng có thểnguyên nhân là do thời điểm xử lý. Những kết quả khả quan hơn đã được ghi nhận trong một trường hợp khác khi hành lá được bón vào đất vài tuần trước khi trồng cây. Tuy nhiên trong nghiên cứu này hành lá được bón vào đất ngay tại thời điểm trồng cây.
Tài liệu tham kháo- Donald, E.C., Porter, I.J., Faggian, R. and Lancaster, R.A. (2006) An integrated approach to the control of clubroot in vegetable brassica crops. Acta Horticul- turae. 706: IV International Symposium on Brassicas and XIV Crucifer Genetics Workshop.
- Wallenhammar, A.C. (1996) Prevalence of Plasmodiophora brassicae in a spring oilseed rape growing areas in central Sweden and factors influencing soil infestation levels. Plant Pathology. 45: 710-719.
Cây dữ liệu:Dữ liệu liên quan:- Nhận thức sai về nguy cơ an toàn thực phẩm - Bài học kinh nghiệm và hướng đi trong tương lai
- Phương pháp tiếp cận hệ thống nghiên cứu các can thiệp hướng tới mục tiêu an toàn thực phẩm và sức khỏe động vật trong chuỗi giá trị thịt lợn quy mô nhỏ
- Giải quyết các vấn đề an toàn thực phẩm và rủi ro sức khỏe động vật trong chuỗi giá trị heo qua lăng kính kinh vế và giới: Chúng ta học được gì từ những nghiên cứu trường hợp tại Hưng Yên và Nghệ An?
- Các bệnh nhạy cảm với khí hậu tại Việt Nam: Độc tố aflatoxin B1 trong ngô và các bệnh lây nhiễm từ heo sang người
- Vai trò của nghiên cứu thị trường trong phát triển nông nghiệp vùng Tây Bắc Việt Nam
- Hiện đại hoá thị trường thực phẩm và các kết quả sức khoẻ liên quan đến chế độ ăn uống: Bằng chứng từ đô thị Việt Nam
- Tiếp thị, thị trường: Sản xuất rau quy mô nông hộ nhỏ có dẫn đến sự đa dạng trong khẩu phần ăn của trẻ em? Minh chứng từ vùng Tây Bắc Việt Nam
- Mối quan tâm và đánh giá của người tiêu dùng về chât lượng thực phẩm và an toàn thực phẩm ở khu vực thành thị Việt Nam
- Kết hợp sản xuât ngô và lợn: Bài học nâng cao sinh kế cho hộ nuôi lợn và cải thiện việc sử dụng đất của các hộ trồng ngô
- Tầm quan trọng của giới trong đổi mới nông nghiệp: Nghiên cứu trường hợp từ Miền Trung Việt Nam
- Những rào cản chính cản trở nông dân quy mô nhỏ tiếp nhận và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuât cây ăn quả ôn đới
- Triển vọng thị trường của lê Việt Nam và hàm ý chính sách cho những can thiệp của Chính phủ
- Lợi thế cạnh tranh và tính thời vụ của nguồn cung: Trường hợp nghiên cứu mận tại Việt Nam
- Xây dựng chuỗi giá trị rau bền vững cho các nông hộ quy mô nhỏ tại Mộc Châu và Vân Hồ
- Nông dân có gặt hái được những gì họ gieo trồng? Ảnh hưởng của việc sản xuât rau nông hộ nhỏ đến dinh dưỡng của trẻ em ở nông thôn Việt Nam
- Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc; Một số thành tựu và định hướng hợp tác
- Chương trình Aus4Equality
- Liên kết website
- Thăm dò ý kiến
-
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?Phong phú, đa dạngTạm đượcCần bổ sung thêmBình chọnKết quả
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?
Tổng số:154 phiếu
|
|||
---|---|---|---|
Phong phú, đa dạng | 81,8 81,8% |
126 phiếu | |
Tạm được | 4,5 4,5% |
7 phiếu | |
Cần bổ sung thêm | 13,6 13,6% |
21 phiếu |
Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Địa chỉ: Số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 0243-8234651; FAX: 0243-7344967; Email: tt@mard.gov.vn
© Hệ thống cơ sở dữ liệu csa - Version 1.0
Được phát triển bởi Cty TNHH Tư vấn đầu tư và phát triển Tâm Việt