-
Tác động BĐKH
-
Đề xuất cơ chế chính sách lồng ghép và giảm thiểu tác động biến đổi khí hậu trong phát triển ngành nông nghiệp
Ngày đăng: 04/06/2017Lượt xem: 1317Ngày nay khi nói đến cụm từ “BĐKH” nguời ta hình dung đến một đe dọa hiện hữu trên phạm vi toàn cầu, đến tất cả mọi quốc gia. Nhưng các quốc gia đang phát triển sẽ phải chịu hậu quả đặc biệt lớn hơn vì ở đó sức chống chịu ít hơn và dễ bị tổn thương hơn đặc biệt đối với nông nghiệp và các vùng dân nghèoI. Tổng quan và đánh giá chính sách liên quan đến BĐKH
1. Trên thế giới
Ngày nay khi nói đến cụm từ “BĐKH” nguời ta hình dung đến một đe dọa hiện hữu trên phạm vi toàn cầu, đến tất cả mọi quốc gia. Nhưng các quốc gia đang phát triển sẽ phải chịu hậu quả đặc biệt lớn hơn vì ở đó sức chống chịu ít hơn và dễ bị tổn thương hơn đặc biệt đối với nông nghiệp và các vùng dân nghèo. Uớc tính các quốc gia đang phát triển sẽ chịu tổn thất trên 75% chi phí thiệt hại do BDKH gây ra (WB, 2009).
Báo cáo phát triển thế giới 2010 kêu gọi khu vực Đông Á, Thái Bình dương và những khu vực khác trên thế giới phải hành động ngay từ bây giờ, hành động cùng nhau và hành động theo những cách khác nhau trước khi chi phí tăng và con người phải chịu những mất mát và đau khổ mới có thể giảm bớt và khắc phục được. Cụ thể như sau:
- Hành động ngay và chung tay hành động:
o Hành động ngay, theo đó giữ cho nhiệt độ trái đất không tăng cao hơn 2OC (gọi tắt là con đường 2OC) so với thời kỳ tiền công nghiệp. Muốn làm được điều này cần thay đổi thói quen sử dụng năng lượng trong sản xuất và tiêu dùng và ngay lập tức cần có một cuộc cách mạng năng lượng. Theo đó cần nâng cao ngay lập tức hiệu quả sử dụng năng lượng; sử dụng các công nghệ ít cácbon, tìm kiếm ồ ạt các công nghệ mới. Đối với nông nghiệp cần thúc đẩy sự tìm kiếm các công nghệ mới, các giống cây trồng và vật nuôi mới chịu được các bất lợi của BĐKH (hạn, mặn, thay đổi bất thường về thời tiết....) để đáp ứng đủ lương thực và năng lượng cho dân cư trong tương lai. Dựa vào quan điểm này, một số nước đã xây dựng và hoàn thiện cơ chế, quản lý nhà nước để cùng cam kết thực hiện mục tiêu này ở mỗi quốc gia.
o Hành động cùng nhau, các quốc gia và các nhóm quốc gia cần hành động cùng nhau. Các quốc gia đã đăng ký thực hiện lượng phát thải với mục tiêu giảm thiểu đầy tham vọng; tạo ra công nghệ mới (công nghệ xanh); thực hiện một thị trường các bon đủ lớn và ổn định; xây dựng và áp dụng rộng rãi cơ chế phát triển sạch (CDM); tạo cơ hội phát triển các dịch vụ năng lượng; phát triển các cơ chế quốc tế và trong nước để bảo vệ những vùng, nhóm dân cư dễ bị tổn thương; chia sẻ tổn thất; thúc đẩy công nghệ dự báo, trao đổi thông tin, kiến thức.
o Hành động theo những cách khác nhau: Các phương án thích ứng và giảm thiểu sẽ rất khác nhau tuỳ theo những trạng thái khí hậu khác nhau cho mỗi quốc gia trong tương lai. Các kịch bản phát triển và chiến lược chính sách phải thỏa mãn thúc đẩy sự đổi mới trên nhiều phương tiện; hệ thống năng lượng của thế giới phải chuyển đổi để phát thải giảm đi 50-80%, cơ sở hạ tầng phải xây dựng để chống chiụ các điều kiện cực đoan, Trong nông nghiệp cần bảo đảm đê điều, các hệ thống tưới tiêu và quản lý nước cần phải cải thiện (đủ để bảo đảm sản xuất lương thực nuôi đủ 10 tỷ người); quản lý tổng hợp ở qui mô lớn và dài hạn, linh hoạt có thể đáp ứng nhu cầu gia tăng về tài nguyên, bảo tồn đa dạng sinh học, duy trì các kho dự trữ các bon trên mặt đất, tăng cường mạnh mẽ nguồn tài chính, từ nay đến 2050, ước tính các quốc gia đang phát triển cần khoảng 75 đến 100 tỷ USD/năm. Theo đó, khu vực Đông Á-Thái Bình Dương sẽ cần mức chi phí cao hơn cả, tiếp đến là vùng Mỹ La Tinh-Caribê và vùng Châu Phi – Sahara là những vùng cần có sự quan tâm cao hơn.
- Phát triển nghiên cứu kinh tế thích ứng với BĐKH
Với sự tài trợ cuả Hà Lan, Thuỵ sĩ và Vương Quốc Anh, Ngân hàng thế giới đang xúc tiến 1 nghiên cứu đánh giá kinh tế cho thích ứng với BDKH (http:// www, worldbank,org/eacc) nhằm mục đích giúp các cấp ra quyết định ở các nước đang phát triển hiểu rõ hơn và đánh giá chính xác hơn những rủi ro do BĐKH, trên cơ sở đó xác định ưu tiên, trình tự và lồng ghép các chiến lược thích ứng vào qui hoạch và đầu tư ngân sách để phát triển trong bối cảnh nguồn lực hạn chế mà phải cân đối cho nhiều ưu tiên khác nhau. Có 7 nước tham gia nghiên cứu là: Bangladesh, Bolivia, Ethiopia, Ghana, Mozambique, Samoa, Việt Nam. Việt Nam được coi là nước có thể cung cấp các kinh nghiệm để chia sẻ trong những vấn đề ứng phó với thiên tai và BDKH. Đối với các khu vực bị đe dọa, các nước đã chia ra các mức độ đe dọa thành các khu vực: Hạn hán, lũ lụt, bão, nước biển dâng (WB, 2008). Từ đó, các nước nằm trong khu vực này đã xây dựng chiến lược thích ứng riêng nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế cao nhất, rủi ro và thiệt hại thấp nhất.
- Tăng trưởng khôn ngoan với khí hậu:
Mục tiêu của các quốc gia lựa chọn chiến lược này là duy trì an ninh năng lượng; duy trì tăng trưởng kinh tế và giảm phát thải khí nhà kính. Các nội dung cụ thể trong tăng trưởng khôn ngoan với BĐKH là: (i) giảm sự lãng phí năng lượng và giảm phát thải; (ii) đầu tư vào năng lượng tái tạo; (iii) bảo vệ rừng; và (iv) xây dựng các đô thị khôn ngoan với khí hậu (WB, 2008, GEF, 2007).
Theo kế hoạch này, các vùng đô thị Đông Á được dự báo là sẽ phát triển nhanh chóng hơn bất kỳ khu vực nào khác. Các đô thị mới phải được xây dựng có hiệu quả về kinh tế và sinh thái (ví dụ nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng cuả các toà nhà và sử dụng các năng lượng tái tạo).
- Giảm khả năng dễ bị tổn thương
Nhiều quốc gia khác trong khu vực và chủ yếu là các quốc gia bị tác động ít hơn của BĐKH lại lựa chọn và xây dựng riêng cho mình các giải pháp, cơ chế nhằm giảm khả năng dễ bị tồn thương. Rủi ro cụ thể liên quan đến BDKH trong tương lai còn chưa chắc chắn tuy có cảm nhận sự xuẩt hiện các sự kiện cực đoan. Do vậy, một số quốc gia lại lựa chọn các giải pháp gồm:
o Qui hoạch giảm nhẹ rủi ro và qui hoạch dựa trên các kịch bản rủi ro,
o Xây dựng các hệ thống cảnh báo, đầu tư cho thông tin,
o Lồng ghép quản lý rủi ro BĐKH vào qui hoạch phát triển,
o Chú trọng quản lý tài nguyên nước
o Chọn chiến lược linh họat (do BĐKH có tính bất ổn lớn); chiến lược thích ứng mềm (hạn chế các biện pháp công trình),
o Chia sẽ rủi ro
o Kế hoạch linh hoạt tài chính cho ứng phó thảm hoạ
o Nâng cao nhận thức cộng đồng về BĐKH như chương trình thích ứng đặc biệt của Kiribati
- Mở rộng họat động cung cấp tài chính cho BĐKH:
Các quốc gia trên thế giới đã nỗ lực cam kết và vận động tài trợ nhằm giảm phát thải, đương đầu với các tác động không thể tránh khỏi từ BĐKH; triển khai các công nghệ mới, tiếp tục tăng trưởng và giảm nghèo. Tuy nhiên, mức cung cấp tài chính hiện nay vẫn còn kém xa so với nhu cầu nỗ lực giảm thiểu và thích ứng (ước tính cần khoảng 9 tỷ đô la mỗi năm cho đến năm 2012 và cần đến 175 tỷ đô la mỗi năm cho những năm 2030).
2. Ở Việt Nam
Thực tế, tất cả những nội dung về nông nghiệp và PTNT hiểu theo nghĩa rộng đều liên quan đến thiên nhiên và khí hậu như chế độ canh tác, dịch bệnh, phòng chống bão lụt và thiên tai, thuỷ lợi, rừng, dân cư nông nghiệp. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là với các đe dọa của BĐKH đang hiện hữu thì ngành NN và PTNT đã có những chương trình, chiến lược nào liên quan đến ứng phó với BĐKH tại Việt Nam thời gian tới. Văn bản mới nhất có tính pháp lý về chương trình hành động thích ứng với BĐKH của Bộ Nông nghiệp và PTNT đã được ban hành theo Quyết định số 2730/QĐ-BNN-KHCN ngày 05 tháng 9 năm 2008.
Mới đây là quyết định số 543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23/3/2011 ban hành kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến 2050; Chỉ thị số 809/CT-BNN-KHCN ngày 28/3/2011 về việc lồng ghép biến đổi khí hậu vào xấy dựng, thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án, đề án phát triển ngành nông nghiệp và phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, giai đoạn 2011-2015 của Bộ NN&PTNT
II. Đánh giá kết quả đạt được, nguyên nhân và yếu kém cần khắc phục
1. Kết quả đạt được và yếu kém cần khắc phục
Trước những diễn biến bất lợi của khí hậu toàn cầu, chúng ta đã có những hoạt động nhằm chủ động đối phó với những thách thức mới, kết quả đạt được đã mở ra những triển vọng, tạo tiền đề để từng bước thích ứng với những biến đổi của khí hậu, song cũng còn nhiều yếu kém cần tiếp tục được nghiên cứu giải quyết, thể hiện trên những mặt chính sau:
Thông qua các chương trình khoa học công nghệ chọn tạo giống cây trồng (2000-2005) và các chương trình hàng năm, các đơn vị nghiên cứu đã chọn tạo ra được những giống cây trồng mới, trong đó có các loại giống sử dụng cho các điều kiện gieo trồng khác nhau. Đến nay, ngoài các giống lúa thích ứng với điều kiện thâm canh, nước ta cũng đã có các bộ giống lúa thích nghi với điều kiện úng ngập (bộ giống chịu úng: U17, U20, U21 của Viện Cây lương thực-CTP), các giống chịu mặn như M6, bàu tép; các giống chịu phèn như Tép lai; các giống chịu hạn: CH2, CH3, CH5, CH133 (Viện CLT-CTP), các giống thuộc sê-ri LC của Viện Khoa học nông nghiệp Miền Nam và Viện Bảo vệ thực vật… Những giống này chưa nhiều nhưng sẽ là tiền đề để các nhà chọn giống tiếp tục nghiên cứu, lai tạo ra những giống thích ứng với các điều kiện của BĐKH.
2. Nguyên nhân của yếu kèm cần khắc phục:
o Do nhận thức về thiên tai trong tình hình BĐKH và phát triển bền vững chưa đầy đủ, trong đó phương châm sống hài hoà với thiên nhiên chưa được quán triệt; còn ỷ lại, chủ quan, thiếu chủ động trong phòng, chống. Việc tổ chức tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH, thiên tai chưa thường xuyên, thiếu hệ thống, chưa được đưa vào chương trình giáo dục tại các trường học;
o Công tác phòng chống thiên tai trong bối cảnh BĐKH chưa được đưa vào quy hoạch, chưa lồng ghép BĐKH với chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Ngành. Địa phương và gắn với bảo vệ môi trường. Chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội và phương châm 4 tại chỗ của các địa phương; việc huy động, sử dụng nguồn vốn viện trợ còn chậm;
o Cơ chế chính sách còn thiếu, chế tài xử lý còn thiếu tính răn đe. Còn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm. Chưa có chính sách động viên, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tự nguyện tham gia trong công tác phòng chống thiên tai trong bối cảnh BĐKH;
o Đầu tư cho công tác phòng chống thiên tai trong bối cảnh BĐKH còn hạn chế, việc trồng rừng phòng hộ ven biển, kết hợp nuôi trồng thuỷ sản thiếu đồng bộ, đặc biệt triển khai các khu neo đậu tầu thuyền chưa đáp ứng được yêu cầu. Bảo vệ rừng đầu nguồn còn buông lỏng dẫn đến dòng chảy mùa kiệt giảm và gây lũ lụt, úng ngập, sạt lở, xói mòn đất vào mùa mưa;
o Công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai còn bị động, nặng về giải quyết tình huống, khi có thiên tai, năng lực phản ứng còn chậm; Hệ thống dự báo, cảnh báo còn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là loại hình thiên tai như lũ quét, sạt lở, dông, lốc;
o Hệ thống sản xuất kém bền vững, cơ cấu sản xuất chưa phù hợp; cơ sở hạ tầng còn thấp kém, dễ bị tổn thương khi thiên tai xẩy ra;
o Công tác cứu trợ khẩn cấp, khắc phục hậu quả còn chưa đáp ứng yêu cầu, có nơi còn lúng túng, thiếu sự phối hợp thống nhất; Công tác tìm kiếm, cứu nạn còn hạn chế do thiếu trang thiết bị, chưa chuyên nghiệp, chưa phát huy hết sức mạnh tổng hợp của cộng đồng tham gia.
III. Lồng ghép đề xuất các chính sách và thể chế phù hợp nhằm thích ứng với BĐKH trong lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam
1. Nguyên tắc lồng ghép BĐKH trong các chính sách
Các chính sách về phát triển nông nghiệp và nông thôn của Việt Nam đề ra phải nằm trong khuôn khổ chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt nam, bảo đảm xây dựng thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước bảo đảm phát triển bền vững.
Việc đề ra các chính sách phải bảo đảm phát triển, có tính khả thi cao, không chồng chéo, lãng phí. Các chính sách phải thể hiện tính kế thừa và có thể đạt được nhiều mục đích trong xây dựng và phát triển, liên ngành, đa ngành.
2. Đề xuất một số chính sách lồng ghép BĐKH trong phát triển nông nghiệp, nông thôn:
-Lồng ghép về công tác nghiên cứu điều tra, quan trắc và dự báo gần của ngành khí tượng Thuỷ văn với ngành nông nghiệp
-Lồng ghép chương trình vệ sinh nước sạch, môi trường nông thôn với các công trình phát triển thuỷ lợi, thuỷ điện và tiết kiệm nguồn nước mặt, bảo vệ và phát triển rừng;
-Lồng ghép nghiên cứu qui họach sử dụng đất đa mục tiêu trung hạn và dài hạn;
-Lồng ghép các qui họach vùng sản xuất nông lâm nghiệp với chương trình an ninh lương thực và năng lượng quốc gia
-Lồng ghép các nghiên cứu công nghệ cao, công nghệ sinh học với bảo tồn và phát triển quĩ gen
-Lồng ghép hoạt động của chương trình xoá đói giảm nghèo với các hoạt động ứng phó và giảm thiểu các tác động tiêu cực của BĐKH cuả các vùng dân cư ven biển và vùng núi, vùng sâu, vùng xa,
-Phát triển sản xuất sạch, tiết kiệm năng lượng giảm phát thải khí nhà kính trong trồng trọt và chăn nuôi,
-Lồng nghép nghiên cứu phát triển công nghệ, các tiến bộ khoa học mới về nông nghiệp và PTNT với các hoạt động thích ứng với BĐKH và giảm thiểu phát thải khí nhà kính
Nguồn: http://occa.mard.gov.vn
Cây dữ liệu:Dữ liệu liên quan:- Kết luận và kiến nghị về BĐKH với trồng trọt
- Đề xuất các biện pháp thích ứng cho các loại đất và vùng sinh thái khác nhau
- Đánh giá hiệu quả một số biện pháp thích ứng với BĐKH
- Tổng kết các biện pháp thích ứng với BĐKH đã được áp dụng cho nông nghiệp tại các vùng
- Đề xuất các biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu trong nông nghiệp
- Hiệu quả chuyển giao giống cây trồng mới năng suất cao
- Hiệu quả từ các dịch vụ khuyến nông
- Nghiên cứu và phát triển các giống cây trồng mới
- Dự báo tổng thể tác động của BĐKH đối với một số cây trồng chính
- Đánh giá tác động tiềm ẩn đối với nông nghiệp Việt Nam do BĐKH
- Đánh giá chi phí xã hội do tăng đầu tư nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu
- Biến đổi khí hậu và nông nghịệp
- Liên kết website
- Thăm dò ý kiến
-
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?Phong phú, đa dạngTạm đượcCần bổ sung thêmBình chọnKết quả
Bạn thấy nội dung trên chuyên trang CSA như thế nào?
Tổng số:209 phiếu
|
|||
---|---|---|---|
Phong phú, đa dạng | 60,3 60,3% |
126 phiếu | |
Tạm được | 3,3 3,3% |
7 phiếu | |
Cần bổ sung thêm | 36,4 36,4% |
76 phiếu |
Cục Trồng trọt - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Địa chỉ: Số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội
Điện thoại: 0243-8234651; FAX: 0243-7344967; Email: tt@mard.gov.vn
© Hệ thống cơ sở dữ liệu csa - Version 1.0
Được phát triển bởi Cty TNHH Tư vấn đầu tư và phát triển Tâm Việt